LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGOẠI KHOA

Post date: 10:45:15 08-08-2014

Phạm Gia Khánh

Phạm Vinh Quang

1. Lịch sử ngoại khoa.

Ngoại khoa có một bề dày lịch sử và sự phát triển như ngày nay là nhờ sự đóng góp to lớn của nhiều  lĩnh vực. 

ở thời tiền cổ, thuật ngữ "ngoại khoa" không chỉ là các phương pháp điều trị bệnh mà còn là các biện pháp để thực hiện các nghi lễ (cúng quỷ thần, lễ siêu thoát).

Vào khoảng 4000 năm trước công nguyên, người cổ đại đã biết cách thắt và khâu buộc, cầm máu vết thương. Từ 3000 năm trước công nguyên, người Ai Cập đã biết sử dụng những loại chỉ được chế tạo từ ruột động vật để khâu vết thương và chữa gẫy xương, khoan sọ để giải thoát "thần kinh" cho người bệnh.

Vào thời kỳ La Mã cổ đại, Hippocrate (người Hi Lạp, sinh năm thứ 460 trước công nguyên) đã xuất bản hơn 70 cuốn sách y học về gẫy xương, sai khớp và những bệnh cần điều trị ngoại khoa.   

Trong thời kỳ của các nền văn minh cổ đại, Hippocrate đã biết dùng nước đun sôi để nguội và rượu để rửa các vết thương, cố định ổ gẫy để chữa gãy xương, nắn chỉnh để chữa sai khớp, áp nhiệt để đốt các búi trĩ và cầm máu bằng các dùi sắt nung đỏ, chích tháo mủ để điều trị các ổ áp xe... Trong cuốn sách "Corpus Hippocratum", Ông đã mô tả các đặc điểm của thoát vị, bệnh loét dạ dày.

Năm 1478, Aulus Cornelius Celsus - nhà bách khoa toàn thư người La Mã ở nửa đầu thế kỷ thứ nhất trước công nguyên đã mô tả tình trạng nhiễm trùng với 4 đặc điểm: "sưng, nóng, đỏ, đau”, về một số phương pháp điều trị ngoại khoa. ở thời kỳ này, nhà danh y Hi Lạp Herophile (sinh năm thứ 320 trước công nguyên) đã tiến hành phẫu tích tử thi để nghiên cứu về giải phẫu người.

Erasistrate (sinh năm thứ 310 trước công nguyên) đã đề xuất phương pháp chữa tắc ruột và thoát vị nghẹt bằng mổ bụng. Clauduis Galen (sinh vào năm thứ 130 trước công nguyên) đã biết luộc dụng cụ trước khi sử dụng cho phẫu thuật, sử dụng chỉ để thắt mạch máu, chữa các vết thương cơ, thần kinh, mạch máu, gẫy xương, sai khớp và chích bỏ máu, mổ lợn, khỉ, bò để nghiên cứu về giải phẫu.

A.C.Celsus (nửa đầu của công nguyên) đã biết cách thắt buộc mạch máu, chữa vết thương bụng, dùng bông và giấm để chữa vết thương. 

Hoa Đà (sinh năm 190 sau công nguyên) đã dùng bột gây tê để mổ vết thương,  lấy mũi tên, mổ bụng, khoan sọ, thiến hoạn...

Mặc dù ngoại khoa được tách ra thành một chuyên ngành của y học từ rất sớm (khoảng 200 năm trước công nguyên) nhưng không thể phát triển được trong suốt thời kỳ trung cổ do sự thống trị của đạo giáo và do Giải phẫu học - môn khoa học nền tảng của ngoại khoa vẫn chưa phát triển. 

Sự phát minh ra thuốc súng và những cuộc chiến tranh triền miên giữa các nhà nước phong kiến cùng với sự phát triển của chuyên ngành Giải phẫu đã tạo những điều kiện thuận lợi cho ngoại khoa phát triển.

Môn Giải phẫu học trong thời kỳ này cũng rất phát triển nhờ các công trình nghiên cứu của Leonard de Vinci (1452 - 1519), Andreas Vealius (1514 - 1584), Andreas Vesalius (1514 - 1564), Gabriel Fallope (1523 - 1562) và các nghiên cứu về Sinh lý học với các công trình về tuần hoàn máu của William Harvey (1587 -1657), về tuần hoàn bạch huyết của Gaspard Aselli (1581-1626), Fean Pecquet (1622 - 1674) về tế bào và mao mạch của Marcelo Malpighi (1628 - 1694)

Các thầy thuốc ngoại khoa lúc này đã tập hợp lại thành phường, hội để hành nghề. Trong những thế kỉ XIV, XV, XVI, nghề phẫu thuật vẫn chưa được xã hội công nhận chính thức. Phẫu thuật viên chỉ được coi như những người thợ cạo hành nghề chích bỏ máu, chích áp xe, nhổ răng, rạch mổ thoát vị.

Từ năm 1540, nhờ đạt được thoả thuận về phạm vi hành nghề mà các phẫu thuật viên không phải làm nghề cắt tóc và những  người thợ cắt tóc cũng chỉ được phép chữa răng. Phải đến những thập kỷ đầu của thế kỷ XVIII, chuyên ngành ngoại khoa mới chính thức được xã hội công nhận. 

Vào năm 1800, George III đã công nhận trường Đại học Ngoại khoa Hoàng Gia ở Luân Đôn. 

ở nước Pháp, ngày 12 tháng 12 năm 1731, vua Lui thứ 15 đã phê chuẩn thành lập Hội ngoại khoa. Ngày 2 tháng 7 năm 1748, Viện Hàn lâm phẫu thuật của nhà vua Pháp được thành lập. Chương trình đào tạo về ngoại khoa được Pierre Joseph  Desault (1744 - 1795) xây dựng.

Vào những thập kỷ sau của thế kỷ XIX, ngoại khoa đã có những bước tiến và sự phát triển đáng kể, làm tiền đề cho sự phát triển vượt bậc của ngoại khoa trong thế kỷ XX.  

Năm 1858, nhà giải phẫu bệnh Rudolf Virchow đã đưa ra lý thuyết về bệnh lý tế bào. Vào giữa thế kỷ XVIII, Morgagni tin rằng: mọi bệnh đều phát triển ở các cơ quan của cơ thể. Vào đầu thế kỷ XIX, phẫu thuật viên người Pháp Xavier Bichat đã khẳng định: các cơ quan của cơ thể đều được cấu tạo bởi các mô, giới hạn cuối cùng của các quá trình bệnh lý khu trú ở các tế bào. 

ở nước ta, từ thế kỷ XIV đến thế kỷ thứ XVIII, vào các thời đại nhà Lý, Trần, Lê đã có những bài thuốc y học cổ truyền chữa gẫy xương, viêm tấy phần mềm. Tuệ Tĩnh, vị danh y ở thế kỷ thứ XIV đã dùng cao dán để điều trị các vết thương do dao chém, các bài thuốc để chữa bỏng, để trị dòi, bọ tại vết thương, vết bỏng. Hải Thượng Lãn ông (1720 - 1791) đã có những bài thuốc uống, thuốc rửa, thuốc dùng tại chỗ để điều trị các thương tích do bị đánh, bị thương (các vết đứt, vết chém), các vết bỏng. 

2. Gây mê và khử trùng.

Trước khi có các phát minh về tiệt trùng, khử khuẩn, thì tỉ lệ các vết thương bị nhiễm khuẩn và tình trạng tử vong do nhiễm khuẩn rất cao gây ảnh hưởng lớn đến kết quả phẫu thuật trong nhiều thế kỷ.

+ Vào năm 1840, bác sỹ sản khoa người Hungari Ignaz Semmelweis và Oliver Wendell đã  tiến hành khử trùng buồng đỡ và môi trường xung quanh bằng vôi và khử trùng tay người đỡ đẻ bằng dung dịch clo.

+ Việc ứng dụng phương pháp gây mê trong phẫu thuật vào năm 1840 được coi là phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử của y học.

Vào năm 1842, bác sĩ Crawford W. Long (người Georgia) đã sử dụng phương pháp gây mê ête để cắt bỏ những khối u nhỏ trên da. Năm 1844, H.Wells đã nghiên cứu sử dụng protoxydazot để gây mê. Năm 1898, Augurt Bier đã đề xuất phương pháp gây tê tủy sống. Năm 1947, J.Y. Simpson (người Anh) đã sử dụng cloroform để gây mê và dùng cocain để gây tê từ năm 1884. Năm 1904, Eichnom sử dụng novocain để gây tê tại chỗ. Việc Jame Young Simpson  công bố phương pháp gây mê trong phẫu thuật đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của ngoại khoa.  

+ Mặc dù kính lúp và kính hiển vi đã được Leuenhook (1632 - 1723) phát minh từ những thế kỷ trước, nhưng mãi tới thế kỷ XIX mới có những phát hiện về vi sinh vật. Năm 1864, nhà khoa học người pháp, Louis Pasteur đã phát triển lý thuyết mầm bệnh và đề xuất phương pháp dùng nhiệt để tiệt khuẩn. 

+ Joseph Listera (sinh năm 1827 ở Essex) là người đã có công phát triển và ứng dụng các nguyên lý khử trùng trong thực hành ngoại khoa. Quy trình khử trùng bằng cách nhúng dụng cụ phẫu thuật vào dung dịch axít carboxylic và xịt hơi nước để khử trùng môi trường trong phòng mổ đã được Lister công bố vào năm 1867.  

Năm 1882, Robert Kock đã phân lập được trực khuẩn lao.

Từ năm 1881, phương pháp khử khuẩn bằng các nồi hơi với áp suất cao đã được áp dụng khá rộng rãi. William Halsted đã đề xuất sử dụng găng tay cao su dùng trong phẫu thuật từ năm 1890. 

Năm 1994, Jgnaz Phillip Smelwis (người Hunggary) đã đề xuất: cần rửa sạch bàn và ngón tay bằng dung dịch clorua vôi trước khi phẫu thuật và giặt sạch các đồ vải, dụng cụ được sử dụng trong phẫu thuật

2. Phẫu thuật bụng.

Lịch sử phát triển của phẫu thuật bụng đã có từ rất lâu. Từ thời kỳ cổ đại, Hippocrate đã có những tài liệu mô tả chứng thoát vị, loét dạ dày, tá tràng. Các danh y Hi Lạp khác như Era sistrate (sinh năm thứ 310 trước công nguyên), đã biết mổ bụng chữa tắc ruột và thoát vị. A.C Celsus (thế kỷ đầu của công nguyên) đã mô tả cách chữa vết thương bụng. Hoa Đà đã tiến hành mổ bụng và thiến, hoạn.

Vào thế kỷ XIX, các phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa viêm trước khi vỡ, phẫu thuật điều trị ung thư thực quản và dạ dày của Billroth, phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn cải tiến của Bassini và Halsted đã được giới y học thời kỳ này đánh giá cao.

Vào những năm 1880 do chưa có những hiểu biết về khử trùng nên phẫu thuật viên không dám mở bụng để trị tắc ruột, thoát vị nghẹt. Năm 1809, bác sỹ Ephraim mcDowell người Kentucky đã dũng cảm cắt bỏ thành công một khối u buồng trứng lớn cho bà  Jane Todd Crawford. Nếu phẫu thuật không thành công, Ông có thể bị những người dân trong thị trấn Danville, kentucky treo cổ.

Nhưng nguyên lý cơ bản của kỹ thuật khâu nối ruột đã được phát minh từ đầu thế kỷ XIX nhưng phải tới vài thập kỷ sau kỹ thuật này mới được đưa vào sử dụng. Trong thời gian này, Guillaume Dupuytren (người Pháp) đã tiến hành những thí nghiệm liên quan đến kỹ thuật khâu nối ruột.

Một sinh viên của Dupuytren là Antoine Lembert là người đã đề xuất mối khâu rời (sau này được mang tên ông - mối khâu Lembert) cho phép áp tối đa các mặt thanh mạc của ruột.

ở châu Mỹ, những công trình nghiên cứu của nhà giải phẫu bệnh Reginald Heber Fitz cùng các phẫu thuật viên như Charles Mac-Burney, Henry B, Sands (New York), John B. Murphy (Chicago) đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngoại khoa. Năm 1886 Fitz đã chính thức đưa căn bệnh viêm ruột thừa vào giảng dạy.

Charles Mac-Burney, giáo sư ngoại khoa của trường Y, làm việc ở bệnh viện New York là người đã tìm ra điểm thăm khám phát hiện ruột thừa viêm vào năm 1889 (điểm này được gọi là điểm Mac-Burney), 5 năm sau ông lại công bố đường rạch da trong phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa viêm (đường Mac-Burney).

Sự kiện dẫn lưu thành công áp xe ruột thừa cho Vua Edward VII nước Anh, giúp cho Ông lên ngôi vua vào năm 1902 đã khiến cho dư luận quan tâm nhiều hơn đến vai trò của ngoại khoa, tạo điều kiện cho ngoại khoa phát triển.

3. Phẫu thuật thần kinh.

  Thế kỷ XIX đánh dấu sự phát triển đặc biệt của Phẫu thuật thần kinh, Phẫu thuật lồng ngực và Phẫu thuật cấy ghép tạng.

 Các công trình nghiên cứu của  Harvey Cushing, Walter Dandy... đã mở ra một giai đoạn phát triển mới cho chuyên ngành Phẫu thuật thần kinh. 

Phương pháp khoan sọ Trephin là một phẫu thuật xuất hiện sớm nhất trong lịch sử  phát triển ngoại khoa, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của chuyên ngành Phẫu thuật thần kinh. Khi mới xuất hiện, phương pháp này chỉ được dùng để điều trị chứng tâm thần, để làm giảm áp lực nội sọ trong chấn thương sọ não  hoặc để điều trị chứng động kinh. Harvey là người đã sáng chế ra một lược đồ giúp cho các bác sĩ gây mê có thể liên tục thu thập được những thông tin về hô hấp và huyết áp của bệnh nhân. Vài năm sau ông đã sáng chế ra máy đo huyết áp phục vụ cho các phòng mổ. Tại bệnh viện Johns Hopkins, Ông đã sáng lập ra các phòng phẫu thuật thực hành để có thể dạy cho sinh viên các phương pháp phẫu thuật  thực nghiệm hiện đại trên chó.

4. Phẫu thuật lồng ngực.

+ Trước khi khâu thành công vết thương tim vào năm 1890, chuyên ngành Phẫu thuật lồng ngực mới chỉ thực hiện được các thủ thuật dẫn lưu mủ, máu màng ngoài tim. Các phương pháp điều trị ngoại khoa đối với những thương tổn của tim (chấn thương, bẩm sinh, thoái hóa, tổn thương sau nhiễm trùng) đã  được đề cập đến khá chi tiết trong các cuốn sách của Meade, Richardson và Johnson.

Năm 1902, từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên động vật, Lauder Brunton cho rằng: có thể điều trị được các bệnh van tim bằng phẫu thuật. Cho đến tận năm 1925, một đồng nghiệp của Lauder Brunton ở London là Henry Souttar đã thực hiện thành công phẫu thuật nong van hai lá bằng ngón tay qua đường tiểu nhĩ trái để điều trị bệnh hẹp lỗ van hai lá cho một cô gái 19 tuổi. Phẫu thuật van tim bắt đầu phát triển mạnh từ năm 1940.

Năm 1928, Elliot Cutler and Claude Beck đó tổng kết 12 trường hợp phẫu thuật van với  tỷ lệ tử vong là 83%.

Các thí nghiệm về phẫu thuật tim được bắt đầu từ những năm 1880. Năm 1882 M. H. Block- nhà phẫu thuật người Đức đó thông báo vể các dạng tổn thương tim. ông đã khâu thành công vết thương tim trên thỏ và khẳng định  phương pháp phẫu thuật này có thể áp dụng trên  người. 

Phẫu thuật thay van động mạch chủ đã được một số tác giả tiến hành từ năm 1965.

Một trong những người tiên phong trong chuyên ngành phẫu thuật tim là Michael E. DeBakey. Năm 1934, Ông đã phát minh ra loại bơm cuộn - đảm nhiệm chức năng cơ học của tim trong máy tim - phổi nhân tạo, chế tạo các loại động mạch nhân tạo. Ông là người đầu tiên tiến hành các phẫu thuật điều trị  phồng động mạch chủ bụng và động mạch chủ ngực, phẫu thuật cắt bỏ lớp áo trong của động mạch chủ, động mạch cảnh (năm 1953), là người đầu tiên sử dụng các đoạn tĩnh mạch nông làm cầu nối để điều trị thành công bệnh tắc động mạch vành (năm 1964). 

 

Sự ra đời của phương pháp gây mê nội khí quản vào năm 1910 đã giải quyết được những khó khăn về kĩ thuật mà chuyên ngành Phẫu thuật lồng ngực đã gặp phải trong suốt một thời gian dài. Mặc dù John H. Gibbon đã bắt đầu  nghiên cứu về máy tuần hoàn ngoài cơ thể từ trước chiến tranh thế giới lần thứ II, cho đến tận những năm cuối của thập kỷ 30 (thế kỷ XX), máy hô hấp nhân tạo, thiết bị hạ nhiệt và tim phổi nhân tạo  mới ra đời.

Vào những năm đầu thập niên 40 (thế kỷ XX), Blalock, Edwards A. Park  Helen Taussig,  Edwards A. Park, Helen Taussig và Vivien Thomas đã phát triển thành công phương pháp điều trị ngoại khoa tứ chứng Fallot.     

+ Sơ lược lịch sử phát triển của máy tuần hoàn ngoài cơ thể:

Năm 1812, LeGallois đã khẳng định tính khả thi của việc chế tạo máy tuần hoàn nhân tạo.

Năm 1869, Ludwig và Schmidt đã tiến hành những thử nghiệm về khả năng cung cấp ôxy nhân tạo cho máu.

 Năm 1882, Schraeder là người đầu tiên đã chế tạo thành công thiết bị cung cấp ôxycho máu trong hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể (bubble oxygenator).

Năm 1885, Frey và Gruber đã chế tạo thành công màng lọc ôxy (film oxygenator) đầu tiên.

Năm 1916, McLean đã tìm ra heparin cho phép máu của cơ thể có thể chảy qua hệ thống các ống nhân tạo trong một thời gian dài (mà không bị đông lại).

Năm 1934, DeBakey đã phát minh ra loại bơm cuộn (roller pump) dùng để bơm máu, thay cho chức năng cơ học của tim trong hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể (máy tim - phổi nhân tạo).

Năm 1937, Gibbon đã mô tả trong cuốn sách “Lịch sử ngoại khoa” một máy tim-phổi nhân tạo và thông báo về một trường hợp mổ thực nghiệm trên động vật với máy tim-phổi nhân tạo đầu tiên thành công.

Năm 1944, Kolff  đã phát triển phương pháp thẩm tách máu bằng “thận nhân tạo” (phương pháp điều trị bằng tuần hoàn ngoài cơ thể đầu tiên được ứng dụng trên người trong lịch sử y học).

Năm 1953, Gibbon đã mổ đóng lỗ thông liên nhĩ thành công cho một bệnh nhân nữ 18 tuổi dưới tuần hoàn ngoài cơ thể.

Năm 1956, ca phẫu thuật tim mở đầu tiên sử dụng máy tim-phổi nhân tạo được thực hiện thành công ở Đức (tại vùng Zenker thuộc thành phố Marburg).

Năm 1965, Bramson đã chế tạo thành công màng lọc ôxy đầu tiên.

Năm 1968, Raffert và cộng sự đã mô tả loại bơm máu ly tâm dùng cho máy tuần hoàn ngoài cơ thể. Năm 1994, toàn thế giới đã mổ được trên 650.000 trường hợp với máy tuần hoàn ngoài cơ thể (trung bình mổ được gần 2000 trường hợp mỗi ngày).

5. phẫu thuật mạch máu, vi phẫu thuật.

Sự phát triển của chuyên ngành Phẫu thuật mạch máu có thể chia ra làm hai thời kỳ: thời kỳ thắt mạch và thời kỳ phẫu thuật tái tạo, phục hồi sự lưu thông của các mạch máu.

6.1. Thời kỳ thắt mạch:

Từ thời kỳ đế quốc La Mã, thời kỳ Phục Hưng tới giữa thế kỷ XX, phẫu thuật thắt mạch máu vẫn là phẫu thuật chính, cơ bản trong xử trí vết thương mạch máu.

Từ thời kỳ Hippocrate, người ta đã tiến hành thắt buộc các mạch máu và cắt cụt để điều trị bệnh hoại thư các chi thể tại vị trí mà các mạch máu bị tắc để tránh biến chứng chảy máu. 

Antyllus đã đề nghị phương pháp điều trị ngoại khoa phồng động mạch bằng phương pháp thắt mạch máu ở đầu trung tâm của túi phồng. 

William Hunter  đã đề nghị thắt động mạch ở đầu trung tâm của túi phồng để cầm máu.

Kết quả nghiên cứu về các vòng tuần hoàn chi thể và những biện pháp cải thiện tuần hoàn bên của V.N. Tonkov, V.A. Oppel, B.A. Dolgo - Saburov, Port, Lerich... đã góp phần cải thiện kết quả phẫu thuật thắt mạch máu. 

6.2. Thời kỳ phẫu thuật tái tạo, phục hồi sự lưu thông mạch máu:

Năm 1759, Hallowel (nước Anh) đã khâu phục hồi thành công tổn thương mặt bên của động mạch cánh tay.

Carrel đã đặt nền móng cho chuyên ngành Phẫu thuật mạch máu vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đề xuất 12 vấn đề chủ yếu cần chú ý trong điều trị thông động-tĩnh mạch làm cơ sở  cho kỹ thuật cấy ghép tổ chức cơ quan sau này.

Năm 1879, nhà phẫu thuật người Nga là EKK đã thực hiện thành công miệng  nối bên-bên hai mạch máu (tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch cửa).

Năm 1882, Schede đã khâu hồi phục thành công một trường hợp rách thành bên tĩnh mạch.

Năm 1895, I. Ph. Sabanhiev đã thực hiện lấy thử vật tắc ở động mạch đùi nhưng không thành công. Mãi tới năm 1911 tại Pháp, Labey mới tiến hành phẫu thuật lấy bỏ vật tắc ở động mạch đùi thành công. Sau đó phẫu thuật loại bỏ tắc mạch ở ngã ba động mạch chủ bụng được Bauer thực hiện thành công tại Thụy Điển.

Sự phát hiện ra heparin của Mc Lean năm 1916 và sử dụng nó vào trong lâm sàng ở cuối những năm 30 của thế kỷ XX cùng với kỹ thuật chụp cản quang mạch máu (C.A. Reiberg, 1924; Sicard và Foresetier, 1923; Dos Santos, 1925) và  thành công trong lĩnh vực gây mê, tuần hoàn nhân tạo vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX là một bước phát triển nhảy vọt của chuyên ngành Ngoại khoa phục hồi mạch máu.

Trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai và những năm đầu sau chiến tranh, các nhà ngoại khoa tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu phương pháp điều trị ngoại khoa các vết thương mạch máu và phình mạch (B.V. Petrovski, A.P. Krymov, G.G. Karavanov, A.I. Arutynnov...).   

Năm 1903, Matas đã đề xuất phương pháp điều trị phồng động mạch (sau này mang tên Ông) bằng cách mở túi phồng và khâu kín lỗ động mạch từ bên trong lòng túi phồng. 

Năm 1906, Goyanes là người đầu tiên đã sử dụng mảnh ghép tĩnh mạch tự thân  để thay thế  một túi phồng động mạch ở vùng khoeo. 

Govans (1906) và Lexer (1907) đã thay thế thành công đoạn khuyết động mạch bằng một đoạn tĩnh mạch tự thân .

Năm 1916, Lexer đã sử dụng một đoạn tĩnh mạch hiển để thay thế cho một túi phồng động mạch nách sau chấn thương.

Bernheim đã sử dụng tĩnh mạch tự thân để thay thế thành công hai trường hợp phồng tĩnh mạch khoeo.

Việc sử dụng các thuốc cản quang (nitrat iodua) tiêm vào trong lòng động mạch đã được Brooks  đề xuất từ  năm 1924.

Năm 1927, Moniz và Santos đã sử dụng thuốc cản quang loại thorium dioxide bơm vào lòng động mạch để chụp  động mạch não và  động mạch chủ.

Dos Santos (1947) đã đề nghị phẫu thuật loại bỏ nghẽn tắc động mạch, Kunlin (1949) đề xuất tạo đường lưu thông phụ (cầu nối) (by - bass) bằng tĩnh mạch qua chỗ tắc.

Năm 1951, Dubost đã cắt bỏ thành công một phình động mạch chủ bụng,   DeBakey và  Bahnson đã cắt bỏ thành công một phồng động mạch chủ ngực.

Năm 1953, Gibbon đã mổ thành công các phồng động mạch chủ bụng và động mạch chủ ngực với máy tuần hoàn ngoài cơ thể

Năm 1952,Voorhees và Blakemore đã sử dụng động mạch nhân tạo (Vinyon-N, Dacron và Gore-Tex) vào thực hành lâm sàng. 

Từ năm 1960, Jacolson và Suarez đã tiến hành những nghiên cứu thực nghiệm về vi phẫu thuật. Nhờ sự hỗ trợ của kính hiển vi phẫu thuật, với các kim khâu có kích thước từ 50 - 60 micron  đường kính và các dụng cụ đốt cầm máu lưỡng cực, phẫu thuật viên có thể nối được các mạch máu có đường kính dưới 2mm. Sự phát triển của vi phẫu thuật đã cho phép nối mạch, nối dây thần kinh, nối các ngón chân, ngón tay bị đứt rời, nối mạch trong ghép các mạch tự do gồm da và tổ chức dưới da có bó mạch thần kinh nuôi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật tạo hình phát triển.

Carrel đã công bố kỹ thuật khâu nối mạch máu của mình vào năm 1902, khi Ông chưa đầy 30 tuổi. Với kỹ thuật khâu nối mạch máu đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả này, Ông đã đoạt giải thưởng Nobel về Y học vào năm 1912.

Năm 1965, Komatu và Tâmi đã khâu nối thành công một ngón tay cái bị cắt đứt hoàn toàn. J. Cobbelt đã tiến hành chuyển một ngón chân lên để thay thế cho một ngón tay bị đứt lìa thành công vào năm 1968.

7. Điện phân, cân bằng dịch thể, dinh dưỡng, hoá trị liệu, phẫu thuậtnội tiết và X quang.

Cho đến tận những năm 1850, nhờ kết quả các công trình nghiên cứu của Claude Bernard, vai trò của máu và các dịch thể  trong cơ thể mới được hiểu biết một cách đầy đủ. Ông là người đầu tiên sử dụng từ “milieu” để chỉ tình trạng nội môi của cơ thể và chỉ ra được những tiêu chuẩn về sinh lý học cho phép các cơ quan có thể tồn tại một cách độc lập. 

Trong thế kỷ XX, Walter Cannon là người dã đưa ra luận thuyết về ổn định nội môi và Henderson là người đã đưa ra lí thuyết về cơ chế cân bằng acid-base trong cơ thể. 

Năm 1952 giáo sư ngoại khoa Moseley đã xuất bản cuốn sách về phản ứng trao đổi chất, về hiệu quả và tầm quan trọng của việc duy trì quá trình trao đổi chất đối với bệnh nhân sau phẫu thuật.

Jonathan Rhoads, Stanley Dudrick là những người tiên phong nghiên cứu các vấn đề về dinh dưỡng đối với các bệnh nhân phẫu thuật, đưa ra khái niệm tổng thể về phương pháp nuôi dưỡng ngoài đường tiêu hoá. 

Năm 1940, Charles Huggins đã có những nghiên cứu về vai trò của các tuyến nội tiết trong bệnh học cũng như ảnh hưởng của nó đối với các bệnh ung thư.  ông đã đoạt giải Nobel y học năm 1966 nhờ công trình nghiên cứu về vai trò của  các thuốc kháng androgen, estrogen, phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn đối với việc ngăn chặn sự phát triển của ung thư tiền liệt tuyến.

Năm 1921, Alexander Fleming đó mô tả và tách chiết thành công loại men phân giải. Năm 1928, Fleming nhận thấy có một loại nấm mốc (penicillin) ở không khí trong phòng thí nghiệm có khả năng ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn. Từ khi Fleming phát hiện ra nấm penicillin, mãi tới năm 1935, Gerhard Domagk mới trưng bầy loại nấm này cùng với các chất diệt khuẩn khác và tới tận năm 1940 thì ngành Dược phẩm Mỹ mới chế tạo thành công thuốc penicillin và đưa vào thị trường sử dụng như là một sản phẩm thương mại.

Sự kiện Rontgen tình cờ phát hiện ra tia X vào năm 1895 là một phát minh quan trọng, có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của y học. Walter B. Cannon (1901) đã  sử dụng tia X để nghiên cứu về quá trình hấp thụ thức ăn.  

8. Phẫu thuật nội soi.

Lịch sử phát triển của phẫu thuật nội soi có thể chia ra 3 giai đoạn:

8.1. Thời kỳ sử dụng nguồn sáng tự nhiên (từ thời Hippocrate đến năm 1805):

Ngay từ những ngày đầu của nền văn minh nhân loại, người ta đã biết sử dụng các loại ống khác nhau trong thực hành y học. Thủ thuật thụt tháo và dùng các loại ống thông để đưa các chất dinh dưỡng vào cơ thể đã được tiến hành từ thời kỳ cổ xưa ở Ai Cập, Hi Lạp và La Mã cổ đại. 

Hippocrate đã mô tả phương pháp thăm khám nội soi trực tràng, âm đạo, cổ tử cung, tai, mũi từ những năm 460-357 trước công nguyên. Ngay từ những ngày đầu tiên của nền văn minh nhân loại, người ta đã biết sử dụng nguồn sáng tự nhiên để chiếu sáng các khoang nằm sâu trong cơ thể.

8.2. Thời kỳ sử dụng ánh sáng  phản xạ tự nhiên hoặc sử dụng nguồn sáng nhân tạo (từ 1805 - 1957):

+ Giai đoạn 1: hệ thống ống mở (1805 - 1879).

Vào năm 1805, Phillipe Bozzini tạo ra dụng cụ soi bàng quang, trực tràng với sử dụng nguồn ánh sáng từ một ngọn nến được phản chiếu qua một hệ thống gương. 

Atoni J. Desormeaux đã chế tạo loại ống nội soi dạ dày và bàng quang, âm đạo và tử cung sử dụng nguồn sáng từ một ngọn đèn và một thấu kính để hội tụ ánh sáng. Bevan đã sử dụng ống soi thực quản để lấy dị vật thực quản từ năm 1868.

Năm 1869, Pantaleoni đã soi tử cung và đốt polip bằng dung dịch nitrat bạc thành công cho một phụ nữ 60 tuổi.

Năm 1874, Stain đã cải biên một chiếc máy chụp ảnh để chế tạo ra loại ống soi có khả năng chụp ảnh các tổn thương giải phẫu bệnh của bàng quang.

Năm 1867, Bruck là người đầu tiên phát minh ra loại ống soi sử dụng nguồn sáng phát ra từ những sợi bạch kim nối với nguồn điện đặt ở trên đầu. 

+ Giai đoạn 2: sử dụng ống soi cứng (1879 - 1936).

Năm 1879, Max Nitze đã chế tạo thành công loại ống nội soi bàng quang sử dụng hệ thống các lăng kính và nguồn ánh sáng phát ra từ những sợi bạch kim đặt ở trên đầu.

Năm 1880, Edison đã lắp một bóng đèn vào đầu ngoại vi của ống nội soi bàng quang và  thiết kế một rãnh riêng trong lòng của ống nội soi dành cho phẫu thuật. 

Năm 1889, Boisseau du Rocher đã chế tạo thành công phần lăng kính gắn vỏ ở đầu ống nội soi.

Năm 1881, Mikulicz sử dụng một loại bóng đèn nhỏ làm nguồn sáng để soi dạ dày.

Năm 1898, Killian đã soi phế quản thành công nhờ bố trí hệ thống nguồn sáng trên đầu qua một chiếc gương phản chiếu. 

+ Giai đoạn 3: sử dụng ống soi nửa mềm  (1936 - 1957).

Việc phát minh ra loại ống nội soi nửa mềm đã cho phép đưa được ống nội soi qua những chỗ uốn cong, gấp khúc của các cơ quan nội tạng.

Năm 1881, Johann Von Mickulicz đã chế tạo thành công loại ống soi nửa mềm cho phép uốn cong ống khoảng 30 độ so với đoạn dưới của ống.

Năm 1936, Wolf và Schindler đã chế tạo thành công ống soi dạ dày nửa mềm có chiều dài 77 mm, đường kính 12mm và 48 kính lúp  lồng vào nhau.

Năm 1952, Rudolph Schindler đã cho ra đời  loại ống soi nửa mềm mới dựa trên những nguyên tắc về quang học của Lange từ năm 1917. 

+ Giai đoạn 4: sử dụng ống soi mềm  (1957 đến nay).

Năm 1898, Lange và Meltzing đã chế tạo thành công ống soi dạ dày mềm có gắn máy quay phim và công bố kết quả soi dạ dày bằng loại ống này trên 15 bệnh nhân. Một phiên bản hiện đại hơn của loại ống soi dạ dày mềm có quay phim dạ dày đã được phát triển và công bố sau đó 62 năm.

Basil Hirschowitz, C Wilbur và Peters Lawrence Curtis đã chế tạo thành công ống  soi dạ dày ống mềm  sử dụng các sợi thủy tinh, có những lỗ quan sát ở thành bên của ống nội soi và sử dụng bóng đèn ở đầu ngoại vi làm nguồn sáng.     

Năm 1930, Heinrich Lamm đã chế tạo được những sợi thủy tinh mảnh có thể gấp khúc, uốn cong mà vẫn không làm giảm khả năng dẫn truyền ánh sáng. Có hai loại bó sợi thủy tinh: loại bó sợi thủy tinh được tạo ra bởi các sợi thủy tinh độc lập, có tỉ trọng khác nhau, rời rạc, chất lượng truyền ánh sáng của loại này khá thấp. Loại các sợi thủy tinh dính liền nhau, có kết cấu giống hệt nhau có chất lượng cao hơn và cho phép truyền ánh sáng tốt hơn, cho các hình ảnh trung thực và rõ nét hơn.

Năm 1933, Hischowitz đã chế tạo thành công ống nội soi dạ dày-tá tràng đầu tiên sử dụng các bó sợi thủy tinh để dẫn truyền ánh sáng.

Năm 1962, Hischowitz đã thông báo về kinh nghiệm của mình trong soi dạ dày-tá tràng bằng loại ống soi nói trên ở 500 bệnh nhân.

+ Giai đoạn ứng dụng nội soi hiện đại trong chẩn đoán và điều trị bệnh:

Tháng 2 năm 1957,  Hischowitz, Peter và Curtiss đã sử dụng loại ống soi dạ dày tự tạo để soi thành công cho vợ của một sinh viên nha khoa bị loét hành tá tràng.

Năm 1961, Hischowitz đã công bố trên tờ báo Lancet về những kết quả thăm khám nội soi dạ dày và mỏm tá tràng.

Phương pháp chẩn đoán nội soi kết hợp với siêu âm đã cho phép mở rộng hơn khả năng chẩn đoán của phương pháp  nội soi ống mềm. 

Năm 1980, tại Hội nghị nội soi tiêu hoá lần thứ tư tổ chức của châu âu ở Hamburg, Strohm và Classen đã thông báo kết quả sử dụng ống nội soi mềm kết hợp với siêu âm kiểu xuyên tâm. Phương pháp nội soi kết hợp với siêu âm đã góp phần quan trọng trong chẩn đoán các khối u hạ niêm mạc dạ dày, phát hiện độ sâu mà khối u đã thâm nhiễm tới, phát hiện những di căn ung thư vào tổ chức hạch bạch huyết ở xung quanh, phát hiện những khối u có kích thước nhỏ của tụy tạng có đường kính < 2 cm và kiểm tra đường mật, túi mật, thuỳ trái, thùy phải của gan.

Ngoài  khả năng để chẩn đoán, phương pháp nội soi còn có khả năng điều trị một số bệnh như chảy máu đường tiêu hoá trên (tiêm ephedrin, kẹp cầm máu bằng các clip, gây dính tổ chức bằng polimer, đốt cầm máu bằng các đầu đốt điện đơn và lưỡng cực, buộc cầm máu bằng các loại chỉ chun giãn, sử dụng đầu đốt điện, sử dụng liệu pháp gây xơ, làm đông đặc mạch máu bằng siêu âm).

Năm 1939, Crafoord, Frenckner đã mô tả phương pháp sử dụng cồn etanol 98%, dung dịch muối natri, thrombin, dextrose, ephedrin, adrenalin, dung dịch epinephrin đậm đặc để cầm máu các tĩnh mạch thực quản bị giãn vỡ qua nội soi.   

Năm 1964, Gensic và Labuda đã chế tạo và ứng dụng thành công trong nội soi loại laser -  agon, hồng ngọc, nhôm, ytri (Nd-YAG).

Năm 1983, Fruhmorgan đã ứng dụng loại laser vào nội soi thành công. 

Năm 1976, Tytgat đã đưa được ống nội soi qua chỗ hẹp của đoạn thực quản- tâm vị do bị một khối ung thư chèn ép.

Năm 1980, Gauderer đã mô tả kỹ thuật nội soi dạ dày qua da (PEG). Bốn năm sau, Ponsky và Aszodi đã tiến hành trường hợp mở dạ dày và mở tiểu tràng bằng phương pháp nội soi qua da đầu tiên.

Mhe thực hiện ca mổ cắt túi mật nội soi đầu tiên vào năm 1985.

Năm 1970, Oi đã tiến hành soi đường mật nội soi ngược dòng thành công,    mở đầu cho một thời kỳ điều trị sỏi đường mật bằng phương pháp nội soi.

Năm 1974, Classen và Demling và Kawai đã tiến hành lấy sỏi đường mật và cắt các  khối u nhú đường mật thành công.

Phẫu thuật nội soi ổ bụng trải qua 3 thời kỳ: nội soi ổ bụng chẩn đoán, nội soi ổ bụng điều trị và nội soi ổ bụng hiện đại có sử dụng máy vi tính và màn hình. 

- Thời kỳ nội soi ổ bụng chẩn đoán:

Năm 1901, Georg Kelling đã mô tả kỹ thuật soi dạ dày và thực quản bằng ống soi bàng quang (do Nitze và Leiter thiết kế) đưa qua một trocar.   

Năm 1902, Fielder đã bơm khí đã được lọc vào ổ bụng trước khi soi (Koelioskopie).

Năm 1901, Jacobaeus công bố về kỹ thuật soi ổ bụng bằng ống soi bàng quang không bơm khí ổ bụng.

Năm 1901, Von Ott ở St. Detersburg đã miêu tả kỹ thuật soi ổ bụng cho một phụ nữ có thai bằng ống soi “culdoscopic” (kỹ thuật “ Ventroscopy”). 

Năm 1911, Jacobaeus đã công bố kết quả nội soi ổ bụng trên 115 trường hợp, trong đó chỉ có một trường hợp bị biến chứng chảy máu nặng; Kelling miêu tả bề ngoài của gan, các khối u và bệnh lao trên 45 trường hợp nội soi ổ bụng. 

Năm 1911, Bernkeim (người Mỹ) mô tả phương pháp nội soi ổ bụng bằng ống nội soi trực tràng đưa xuyên qua một vết rạch nhỏ ở thượng vị vào sâu 12mm  dùng gương soi tai-mũi-họng để kiểm tra mặt trước dạ dày, gan và cơ hoành.  

Năm 1912, Nordentoft đã chế tạo thành công loại trocar có gắn đèn nội soi. Korbsch (1921), Goetze (1921) và Unverricht (1923) đã giới thiệu loại kim chuyên dụng để bơm khí khoang ổ bụng và máy bơm khí vào khoang ổ bụng. Các dụng cụ này cho phép  mở rộng tầm quan sát ảnh qua nội soi.

Năm 1920, orndoff (người Mỹ) đã chế tạo thành công loại trocar có đầu hình chóp sắc nhọn có thể dễ dàng chọc qua thành bụng. 

Năm 1924, Zollikoffer đã chế tạo thành công loại van gắn vào vỏ của trocar có tác dụng  tự động ngăn không cho khí thoát ra ngoài sau khi bơm khí carbon dioxide vào khoang ổ bụng.

Kalk (người Đức) đã chế tạo thành công loại ống nội soi có lỗ bên cho phép quan sát tổn thương ở một góc khoảng 45o - 50o so với trục dọc, thiết kế dụng cụ sinh thiết trong quá trình nội soi ổ bụng, là người đề xuất và ủng hộ kỹ thuật chọc hai lỗ trong nội soi ổ bụng. 

Năm 1938, Veress (người Hugari) đã chế tạo thành công loại kim có bộ phận  gạt ở bên trong làm thay đổi hướng của lưỡi cắt tạo điều kiện cho việc cắt sinh thiết  nhanh gọn, và một loại kim bơm khí khoang ổ bụng an toàn.   

Năm 1946, Decker đã đề xuất phương pháp thay đổi vị trí đưa ống nội soi vào khoang ổ bụng để làm giảm thiểu các biến chứng tổn thương ruột và mạch máu. 

- Thời kỳ nội soi ổ bụng phẫu thuật (1933 - 1987):

Năm 1933, Fervers lần đầu tiên đã mô tả kỹ thuật mổ bụng qua ống nội soi có gắn những thiết bị sinh thiết và đốt cầm máu, sử dụng khí dioxit carbon để bơm vào khoang ổ bụng.

Năm 1934, Jhon Ruddock đã chế tạo thành công và đưa vào sử dụng hệ thống vật kính chuyên dụng, loại kìm sinh thiết và dụng cụ đốt điện.

Năm 1936, Boesch (Đức) đã tiến hành phẫu thuật nội soi sử dụng dao điện đơn cực để cắt vòi dẫn trứng gây triệt sản, Andreson (Mỹ) đã sử dụng nhiệt làm đông đặc vòi dẫn trứng để triệt sản.

Năm 1937, Hope đã sử dụng nội soi ổ bụng để chẩn đoán và phẫu thuật cấp cứu chửa ngoài tử cung.

Năm 1941, Power và Barnes (Mỹ) đã sử dụng dao điện đơn cực cắt vòi trứng thành công.

Năm 1942, Donaldson và Colleagues (Mỹ) đã treo tử cung thành công bằng phẫu thuật nội soi.

Palmer (1962), Frangeheim (1963) đã sử dụng điện đông để thực hiện triệt sản qua nội soi. 

Năm 1952, Hopkins (Nhà vật lý người Anh) đã phát minh ra hệ thống thấu kính dạng que cho phép truyền năng lượng ánh sáng lên gấp đôi, hình ảnh rõ nét, trung thực. 

Năm 1966, Wittmoser đã chế tạo thành công loại dao điện dùng trong quá trình nội soi .

Corson (1973), Rioux và Cloutier (1974), Frangcheim (1972) đã sử dụng điện để cầm máu trong phẫu thuật nội soi.

Năm 1944, Palmer đã chế tạo thành công dụng cụ bơm khí tự động có thể theo dõi áp lực ổ bụng   

Năm 1969, Semm đã chế tạo thành công dụng cụ cắt tổ chức thành từng mảnh, dụng cụ ngăn cản sự thất thoát khí CO2 được bơm vào khoang ổ bụng, kỹ thuật thắt buộc chỉ trong phẫu thuật nội soi, thiết bị tưới rửa, hút, loại kéo nhỏ, dụng cụ gắn clíp, kẹp hình thoi.

Năm 1982, Semm đã chế tạo thành công các dụng cụ khâu vi phẫu nội soi điều trị chửa ngoài tử cung, triệt sản, cắt vòi trứng, cắt buồng trứng, tách dính vòi buồng trứng, tách tua loa vòi trứng, thiết bị gây dính mạc nối, thiết bị khâu ruột, thiết bị cầm máu nội mạc tử cung, sinh thiết khối u, tái tạo và tạo hình sau thủng tử cung và cắt bỏ ruột thừa nội soi. 

Năm 1970, Steptoe và Edwards lần đầu tiên đã lấy được noãn bào để thụ tinh trong ống nghiệm bằng phẫu thuật nội soi.

Năm 1972, Hulka đã tiến hành triệt sản bằng phương pháp cơ học sử dụng các chíp có thể co giãn được.

Năm 1978, Hasson đề xuất phương pháp phẫu thuật nội soi ổ bụng mở. 

Những ứng dụng của laser CO2 trong phát triển các dụng cụ điện đông lưỡng  cực đối với phẫu thuật nội soi đã được Maurice Bruhat, James Daniell ứng dụng thành công vào thực hành lâm sàng để cắt bỏ các khối u nằm sâu trong niêm mạc tử cung, điều trị chửa ngoài tử cung, tách dính, rạch tháo dịch vòi tử cung, rạch và hút các nang của buồng trứng (hội chứng Stein-Leventhal), làm tiêu các dây chằng tử cung điều trị chứng đau do kinh nguyệt.

Hope (1937) đã công bố những tài liệu đầu tiên về việc sử dụng nội soi ổ bụng để chẩn đoán phân biệt chửa ngoài tử cung. Anderson (1937) đã sử dụng đốt điện để triệt sản. Power và Barnes (1941) đã trình bày kỹ thuật đốt qua ống nội soi để triệt sản. Palmer (1947) đã sử dụng phương pháp nội soi để chẩn đoán nguyên nhân chứng vô sinh ở phụ nữ và chế tạo thành công loại kẹp sinh thiết khoan để sinh thiết buồng trứng. Frangenheim (1959) đã cải tiến thành công dụng cụ quang học sử dụng trong phẫu thuật nội soi ổ bụng. Kalk (1929) đã chế tạo thành công hệ thống thấu kính chếch trước 135 độ và đề xuất sử dụng lỗ chọc thứ 2 để sinh thiết gan. Ruddock (1934) phát triển lỗ chọc đơn để soi màng bụng phẫu thuật và các dụng cụ sinh thiết trong quá trình nội soi.

Năm 1970, việc áp dụng nội soi để sinh thiết gan, nghiên cứu các rối loạn của gan và đường mật, xử trí  cấp cứu bụng đã được các tác giả như Kalk, Wanhagat, Beck và Hemming ở Đức; Berci, Gaisford và Boyce ở Mỹ; Cuschieri ở Anh và Bắc Ailen  triển khai khá rộng rãi.

Pergola, Etienne, Delavierre (Pháp), Canossi, Spinelli, Sotnikovet, Berezov, Nikora (URRS), Cuschieri, Gross(Anh và Bắc Ailen), Devita, Gaisford; Sugarbaker (Mỹ)  là những người đầu tiên tiến hành mổ nội soi điều trị một số bệnh ung thư.

Năm 1986, Warshaw, Tepper và Shipley đã sử dụng phẫu thuật nội soi để điều trị ung thư tụy tạng với tỉ lệ chính xác trên 93%.

Năm 1979, Frimberger (Đức) đã tiến hành phẫu thuật cắt  túi mật và lấy sỏi túi mật bằng phương pháp nội soi. Năm 1983 Lukichev và Colleagues đã mổ cắt túi mật  nội soi điều trị viêm túi mật cấp.  

- Thời kỳ phẫu thuật nội soi hiện đại có sử dụng tin học và màn hình vô tuyến (1987 đến nay):

Sự xuất hiện loại chíp máy tính quay phim truyền hình gắn với ống nội soi vào năm 1986 đã mở ra kỷ nguyên mới cho sự phát triển của phẫu thuật nội soi dưới hướng dẫn của video.

Năm 1987, Mouret (Lyon-Pháp) đã phẫu thuật cắt túi mật nội soi sau khi bộc lộ rãnh ngang của gan và đáy túi mật.

Năm 1988, Dubois và Mouret đã tiến hành phẫu thuật nội soi cắt túi mật thành công.   

Các phẫu thuật nội soi khác cũng được nhiều tác giả trên thế giới thực hiện:  cắt thực quản (Buess, 1989), cắt dây X chọn lọc cao (Dubois, 1989), cắt thân dây X (Kakhouda và Mouret, 1990),  cắt  màng phổi, nội soi lồng ngực để mở cơ thực quản (Cuschieri, 1990), mở cơ tim bằng đường bụng (Cuschieri, 1991), cắt dạ dày bán phần (Goh,1992), cắt dạ dày-ruột, cắt bỏ lách, soi ống mật chủ và lấy sỏi ống mật chủ qua da, tạo vành hậu môn giả, tạo tấm bọc trong thoát vị...

Phẫu thuật nội soi trong những năm gần đây đã phát triển hết sức nhanh chóng và chiếm lĩnh rất nhiều chuyên khoa khác nhau. 

9. Cấy ghép cơ quan.

Phẫu thuật  cấy ghép  cơ quan đã có từ rất lâu. Từ thời xa xưa, những người Hindus cổ đã biết sử dụng da vùng mông để phẫu thuật chỉnh sửa mũi và tai. Vào năm 700 trước công nguyên, người ấn Độ đã sử dụng vạt da chuyển từ vùng trán hoặc vùng má phục vụ cho các phẫu thuật tạo hình mũi (phẫu thuật tạo hình mũi  “kiểu ấn Độ”).

Cấy ghép da là một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của phẫu thuật cấy ghép cơ quan. Những nghiên cứu và phát hiện trong lĩnh vực cấy ghép tế bào và cấy ghép mô dị loại là nền tảng cho sự phát triển của y học và phẫu thuật học trong thế kỷ XX (trong thế kỷ XIX, loài người đã ghép cành và ghép phôi thành công). 

Ross G. Harrison đã bắt đầu nghiên cứu cấy ghép mô từ những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIX. Ông là người đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản trong cấy ghép mô hiện đại mà ngày nay vẫn được sử dụng hết sức rộng rãi.

Harrison có nhiều công trình nghiên cứu về sự phát triển của các tế bào thần kinh, về phương pháp sinh trưởng tế bào độc lập, là người sáng chế ra những dụng cụ quan sát trực tiếp sự phát triển của mô thần kinh phôi thai ếch. 

Sau những thành công trong  nuôi cấy mô thực nghiệm và nuôi cấy cơ quan. Từ năm 1902 đến 1912, Carrel đã bắt đầu nghiên cứu về vấn đề cấy ghép cơ quan. Các công trình nghiên cứu của ông là một sự kết hợp rất chặt chẽ giữa phẫu thuật và kỹ thuật cấy ghép các bộ phận của cơ thể cũng như sự sinh trưởng, phát triển của các tế bào và các mô. ông là người đã phát minh ra những dụng cụ hết sức tinh vi cho phép khâu nối tận-tận các mạch máu.

Trước đây, phẫu thuật cấy ghép các cơ quan thường thất bại do tình trạng nhiễm trùng, nghẽn, tắc mạch gây giảm hoặc thiếu máu nuôi dưỡng - cơ quan được cấy ghép. 

Các công trình nghiên cứu về miễn dịch ghép của Medawar (1944 - 1945) về miễn dịch tế bào của Billingham và Brent (1956), về globulin kháng lympho của Y. Traeger (1966), về huyết thanh kháng lympho của T.E Starzl (1967) có một ý nghĩa rất lớn trong sự phát triển của phẫu thuật cấy ghép mô, ghép tạng, mở ra một hướng mới cho sự phát triển của phẫu thuật ghép mô, tạng đồng loại (ghép bằng mô, tạng của người khác).

Kỹ thuật ghép tủy xương đã được G.Mathé tiến hành từ năm1958.

Kỹ thuật ghép và thay thế thận đã được tiến hành từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Từ năm 1934, I.U. Vôrônôv đã thử tiến hành ghép thận của tử thi cho người nhưng không thành công. Năm 1956, P.Merril đã ghép thành công thận của hai trẻ sinh đôi cùng trứng và tới năm 1959, tác giả này đã ghép thành công thận cho hai trẻ sinh đôi khác trứng.

Năm 1990, Joseph E. Murray ở Brigham đã nhận được giải thưởng Nobel nhờ những đóng góp của Ông trong việc ghép thận. Ông đã ghép thận thành công cho một cặp sinh đôi. Ông nhận thấy: không có một rào cản miễn dịch nào xảy ra khi tiến hành ghép thận cho những cặp sinh đôi cùng trứng. Sau này, người ta mới biết rằng: có thể sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch (immunosuppressants) để làm giảm ảnh hưởng của rào cản miễn dịch. Nhận xét này đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho phẫu thuật ghép thận ngày càng phát triển. 

Phẫu thuật ghép tim  đã được Christian Bernard lần đầu tiên thực hiện thành công vào ngày 30-12-1967. 

Phẫu thuật ghép gan lần đầu tiên được Thomas Starzl tiến hành vào năm 1963.

Phẫu thuật ghép phổi đã được các tác giả Jean Hardy (1963), Mac Govem (1964) và Derom (1968) tiến hành.

ở Việt nam các nhà ngoại khoa đã quan tâm đến vấn đề ghép tạng rất sớm, vào cuối những năm 60 và đầu 70 của thế kỷ trước, GS Tôn Thất Tùng và các học trò của Ông đã nghiên cứu ghép gan thực nghiệm trên chó. Các trung tâm y học lớn như Bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108,  Bệnh viện 103 đã tiến hành ghép thận thực nghiệm; song do hoàn cảnh chiến tranh và nhiều lý do khác nên các công trình nghiên cứu này phải dừng lại.

Phải đến gần 30 năm sau việc nghiên cứu ghép tạng ở Việt Nam mới lại tiếp tục, bắt đầu bằng sự ra đời của ủy ban ghép thận Quốc gia (2-1991) và chương trình ghép thận Quốc gia (12-1990). Ngày 4-6-1992 với sự giúp đỡ của chuyên gia nước ngoài và sự hợp tác của các nhà y học trong cả nước, ca ghép thận đầu tiên ở Việt Nam đã thực hiện thành công tại Bệnh viện 103, Học viện Quân y. Tính đến tháng 11-2001 cả nước đã có 8 trung tâm ghép thận với 140 trường hợp được ghép.

Ngay sau khi ghép thận thành công, ghép gan bắt đầu được nghiên cứu từ năm 1996. Nhờ hai đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về ghép tạng và ghép gan do Học viện Quân y chủ trì. Ngày 31-1-2002 với sự giúp đỡ của chuyên gia Nhật Bản ca ghép gan đầu tiên ở Việt Nam cho một bé gái nhận gan từ người cho sống đã thực hiện thành công tại Học viện Quân y.

10. Một số phẫu thuật khác.

+ Phẫu thuật lạnh được dựa trên nguyên lý sử dụng nhiệt độ lạnh để điều trị bệnh. Những tổn thương do lạnh cóng gây nên đã được đề cập tới trong y văn từ  thời cổ đại. Bác sĩ người Anh James Arnott đã sử dụng không khí hoá lỏng để tạo nhiệt độ lạnh làm phương tiện chữa bệnh từ năm 1951. Sau đó có nhiều tác giả đã sử dụng tuyết cacbonic, peroxyt nitơ để tạo nhiệt độ lạnh làm phương tiện chữa trị một số bệnh ngoài da.

Cooper và Lee đã sử dụng nitơ lỏng ở nhiệt độ -190o C đến -195o C để cắt bỏ u tuyến yên và một số loại u khác ở vùng nền sọ vào năm 1969. Phẫu thuật lạnh đã được sử dụng để điều trị trĩ. Từ năm 1969 để điều trị chứng viêm xơ teo amidan  mãn tính và một số bệnh ngoài da, các tổn thương lành tính của cổ tử cung.

Từ năm 1975, Kelman đã áp dụng phẫu thuật lạnh vào điều trị một số bệnh lý về mắt như bong võng mạc, lấy thể thủy tinh và mổ điều trị bệnh đục thủy tinh thể từ năm 1963.

Trong thời gian gần đây, phẫu thuật lạnh còn được sử dụng trong thực hành lâm sàng để cắt bỏ khối ung thư lưỡi, u môi, u gan, u tụy, để áp vào vùng xung quanh của khối ung thư sau khi đã cắt bỏ nhằm loại bỏ và tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại.

+ Năm 1960, Laser đã  phát minh ra loại tia mang tên Ông (tia Laser). Phát minh này đã làm tiền đề cho phẫu thuật Laser phát triển nhanh vào những năm sau đó.

Ngày nay, người ta đã chế được những loại dao mổ Laser CO2  cho phép làm đông được các mạch máu trên đường rạch nên có khả năng giảm được tối đa lượng máu mất và thời gian phẫu thuật. Dao Laser được sử dụng khá rộng rãi trong các phẫu thuật cắt gan, tụy, phổi, thực quản, dạ dày, ruột... Người ta còn có thể sử dụng xung Laser đưa qua ống nội soi để điều trị các biến chứng chảy máu do loét dạ dày- tá tràng và để phá các viên sỏi có kích thước dưới 1,5 cm ở niệu quản, bàng quang... Dao mổ Laser còn được sử dụng khá rộng rãi trong các phẫu thuật phụ khoa, phẫu thuật thần kinh, cắt bỏ các khối u ở da, cắt bỏ các hoại tử bỏng.…

+ Phẫu thuật ngoài cơ thể trong thời gian gần đây khá phát triển nhờ những loại máy mới được phát minh cho phép phá được các sỏi thận (máy phá sỏi, 1984).

+ Các phẫu thuật làm nghẽn hoặc gây tắc mạch bao gồm: những can thiệp phẫu thuật không chảy máu nhờ sự trợ giúp của các máy X quang có màn hình quang tăng sáng, phẫu thuật viên có thể luồn các ống thông nhỏ vào các mạch máu và gây bít tắc hoặc nghẽn các mạch máu.