Ung thư thực quản

Post date: 10:25:43 08-08-2014

Mục tiêu

1.   Mô tả được giải  phẫu bệnh lý của  ung thư thực quản.

2.   Chẩn đoán  được ung tưdư thực quản.

3.   Trình bày được nguyên tắc điều trị ung thư thực quản.

1. Đại cương

Ung  thư thực quản là loại ung thư hay gặp  và nằm trong danh sách 10 loại ung thư hàng  đầu ở Việt Nam, bệnh tiến triển ban đầu rất  thầm lặng. Tần suất mắc bệnh  thay đổi tùy  theo vùng địa  dư,  có thể do  yếu tố môi  trường và dinh dưỡng. Hiện nay, mặc dù có nhiều  tiến bộ trong ngoại khoa và các  phương pháp điều trị phối hợp nhưng tỷ lệ bệnh nhân sống sau 5 năm chỉ dưới 20%.

2. Các yếu tố thuận lợi

−  Nguy cơ ung thư thực quản gia tăng  theo tuổi.  Ung  thư thực quản gặp chủ  yếu ở nam giới, tỷ lệ nam: nữ là 9:1.

−  Chế độ ăn và thói quen sinh hoạt:  rượu và thuốc lá được  chứng minh có liên quan mật thiết đến gia tăng tần suất ung thư thực quản, trong khi ở những người theo chế độ ăn nhiều  trái cây và rau, tần suất ung thư  thực quản thấp rõ rệt.

−  Chế độ ăn thiếu các chất  như vitamin C, vitamin A hay riboflavin có thể làm  tăng tần suất mắc ung thư thực quản, như các nghiên cứu  ở Trung Quốc  hay Iran cho thấy.

−  Các bệnh  lý  ở thực quản: trào  ngược  dạ dày-thực quản, viêm thực quản mạn tính  do  trào  ngược, loét Barette thực quản, phình  thực quản, sẹo thực quản do bỏng hóa chất... đều có thể dẫn đến ung thư thực quản.

Vì vậy, ở những người có các yếu  tố thuận lợi hay mắc các  bệnh  lý trên, thầy  thuốc cần theo dõi  sát và tiến hành nội  soi kịp thời để phát hiện −ng  thư ở giai  đoạn sớm.

3. Sơ lược giải phẫu

Thực quản là một ống  cơ bắt đầu  từ chỗ  tiếp  theo hầu,  tương  ứng với  bờ dưới của  sụn nhẫn hay bờ  dưới  đốt sống cổ VII trên  phim chụp cắt  lớp, từ đó thực quản đi qua trung thất, cơ hoành và tận  cùng của  tâm  vị  của  dạ  dày. Thực quản dài  khoảng 25cm, dẹt  do  các thành áp sát  vào nhau, khi  có  khối thức ăn đang  nuốt thì  thực quản có hình  ống. Thực quản dính chặt  đầu  trên của  nó  với sụn nhẫn và đầu dưới cơ hoành.

Cách phân chia thực quản

Về mặt phẫu thuật thực quản được chia làm 3 đoạn:

−  1/3   trên  bắt   đầu  từ  miệng thực  quản  (cách  cung  răng trên 14-15cm) cho  tới bờ  trên quai  động   mạch   chủ  (cách cung răng  trên   25cm) đoạn này chỉ dài chừng 10cm.

−  1/3  giữa: bắt  đầu  từ bờ  trên quai động mạch chủ  cho tới bờ dưới   tĩnh   mạch   phổi   dưới (cách cung răng  trên  33cm), đoạn này  dài  chừng 8cm  liên quan tới  các   mạch  máu  lớn của  tim.

−  1/3  dưới:  bắt  đầu từ bờ  dưới tĩnh mạch phổi cho  tới tâm vị (cách cung răng  trên  40cm),

Cấu  tạo

Thực quản được  cấu  tạo bởi  3 lớp: trong cùng là lớp niêm mạc bao  gồm những tế bào biểu mô đáy (ở phần lớn đoạn  trên thực quản) và biểu mô  trụ (ở

đoạn cuối  thực quản), kế tiếp  theo là lớp dưới  niêm  mạc chứa những tế bào tuyến nhầy,  ngoài  cùng là lớp cơ, với những dải cơ dọc  ở ngoài  và những sợi cơ vòng  ở trong. 1/3 trên thực quản là cơ vân, còn 2/3 dưới là cơ trơn.

4. Giải phẫu bệnh

4.1.  Đại thể

Cũng như ở mọi  đoạn  khác của  đường  tiêu hóa, về mặt  đại  thể của  ung thư thực quản có những thể sau:

−  Thể sùi: một vùng niêm mạc thực quản dài  1-2cm, có khi 7-8cm sùi lên những nụ trông giống như hình hoa súp-lơ không đều, cứng, trên bề mặt có  những nụ sùi có  những chỗ  hoại tử, mủn nát, rớm máu, có  khi   tạo thành những ổ loét.

−  Thể  thâm  nhiễm:   ung  thư  thể thâm  nhiễm chủ  yếu phát triển ở lớp niêm mạc xâm lấn  vào lớp dưới  niêm  mạc  rồi  vào  lớp cơ, phát triển theo hình vòng  nhẫn, do  đó làm  ống  thực quản bị chít hẹp.

−  Thể loét: ung thư thể loét là hay gặp nhất, kích thước có  thể lớn nhỏ khác nhau, có  bờ  rõ,  chung quanh ổ loét thành thực quản bị nhiễm  cứng. Có  loét  chiếm  hết chu  vi của  lòng  thực quản.

Ba  hình  thái trên ít  gặp đơn độc mà  thường kết  hợp với nhau để  tạo thành các thể trung gian. Ngoài  ra kết  hợp với khối u thường thấy  giãn thực quản bên trên khối u kèm hiện tượng viêm nhiễm.

Hình 1.2.  Đại thể ung  thư thực  quản sau mổ

4.2.  Vi thể

Phần  lớn là ung thư biểu  bì hay còn gọi  là ung thư biểu mô  tế bào gai, chiếm  90%,  thường là tế bào  biệt hóa có  sừng hoặc không có  sừng. Ung  thư biểu mô dạng tuyến chỉ gặp khoảng 5-10%,  ở phần  dưới của  thực quản và tâm vị. Loại ung thư này  khó phân  biệt  được  là từ thực quản hay từ dạ dày  phát triển ra, hay gặp ở thực quản Barrett.

Sarcoma thực quản rất hiếm gặp, có tỷ lệ khoảng 0,1-1,5% trong tất cả các khối u của  thực quản. Loại này thường định vị ở đoạn thực quản ngực hoặc cổ.

4.3.  Lan tràn

Ung   thư 1/3  giữa nằm trong phần  hẹp của  trung thất  nên dễ xâm lấn sang các tổ chức  chung quanh như khí  phế  quản,  quai  động mạch chủ, màng phổi,  dây thần kinh quặt ngược, ống  ngực. Ung  thư 1/3  dưới thực quản nằm ở vùng rộng của  trung thất, có mô  mỡ lỏng  lẻo  bao bọc,  vì vậy chậm xâm lấn ra chung quanh; ở đây khối u xâm nhập  vào cột  sống, màng tim, màng phổi phải và có thể vào cơ hoành, cột  sống, động mạch chủ  dưới.

Đường di căn của  ung thư thực quản là đường bạch mạch và đường máu. Theo  đường  bạch mạch, ung thư thực quản di  căn xuống vùng tâm  vị, mạch vành phần bụng, di căn lên trên vào dây thần kinh quặt ngược vào hố  trên đòn và cổ, khối hạch giữa thanh quản và khí  quản. Theo đường  máu, tổ chức ung thư di căn vào gan, xương  và phổi.

5. Biểu hiện lâm sàng

5.1.  Triệu chứng cơ năng

5.1.1 Nuốt nghẹn

Lúc  bệnh mới bắt đầu, tổ chức  ung thư còn khu trú, biểu hiện bởi  những rối  loạn khi nuốt, nhất là với thức ăn đặc. Nghẹn có khi  tăng lên, có khi giảm xuống đôi chút nhưng bao  giờ  cũng có, vì ngoài  thương tổn thực thể do khối u, bệnh  thường có  kèm theo yếu  tố viêm nhiễm,  phù nề  tại  chỗ.  Sau khoảng 2 tháng,  triệu chứng nuốt nghẹn  sẽ tăng lên  dần và kéo dài,  mới đầu chỉ  thấy nuốt nghẹn với thức ăn đặc, về sau nghẹn  cả với thức ăn lỏng  như cháo, nước.

Nuốt nghẹn  thường hiện  diện  muộn trong tiền  sử  bệnh  vì  thực quản không có lớp thanh mạc nên cơ trơn giãn ra một cách dễ dàng.  Kết quả là khi dấu  hiệu nuốt nghẹn đã rõ  để  bệnh  nhân đi khám bệnh thì có  trên 60%  số trường hợp đã bị ung thư giai  đoạn  muộn.

Một vài trường hợp ung thư thực quản không có triệu  chứng nuốt nghẹn bởi  vì khối u tiên phát chỉ xâm lấn vào những cấu trúc lân cận mà không xâm lấn  vào lòng  thực quản. Khi  khối u xâm lấn vào khí-phế  quản bệnh  nhân có thể thay đổi giọng nói  và ho dữ dội.

5.1.2. Nôn

Thường thấy  ở giai  đoạn  muộn, khi  khối u tăng  kích  thước làm  chít  hẹp lòng  thực quản. Nôn xuất hiện khi  biểu hiện nuốt  nghẹn đã rõ  rệt. Nôn  có thể xảy ra trong bữa ăn ngay sau khi ăn. Chất nôn là thức ăn vừa mới ăn vào còn nguyên cả  hạt cơm,  hạt  cháo không có lẫn  dịch vị. Có  thể có vài tia máu nhỏ trong chất  nôn.

5.1.3. Tiết nhiều nước bọt

Khi   bệnh  nhân  nuốt  nghẹn nhiều  thì  nước bọt   hầu  như không xuống

được  dạ dày.  Vì  nước bọt tiết nhiều  mà  không nuốt được  nên  bệnh nhân luôn phải nhổ nước bọt.

Ngoài  những triệu chứng trên, những bệnh nhân ung thư thực quản đến muộn người ta cũng ghi  nhận một số  triệu chứng cơ năng khác như: ho nhiều, cơn  nấc,  đau tức  ngực, đau  sau xương  ức  (thể  hiện xâm lấn  của  khối u vào vùng cột  sống),  hơi thở có  mùi hôi  thối hoặc  các triệu  chứng của  biến chứng như sặc, khàn tiếng...

5.2.  Triệu chứng thực thể

Khi  bệnh nhân đến tương đối sớm thì thăm khám thực thể thường không phát hiện  gì. Nhưng khi  đến muộn, lúc  đã có  di  căn thì có  thể  sờ  thấy  hạch thượng đòn, hạch vùng trên rốn,  gan lổn nhổn, di căn xương...

5.3.  Triệu  chứng toàn thân

Trong khi  triệu chứng thực thể rất  nghèo nàn thì triệu chứng toàn  thân lại rất rõ rệt: người bệnh sút cân nhanh chóng, trong vòng  vài ba tháng có thể sút tới 10-15kg cân nặng. Bệnh nhân  hốc hác, mất  nước, da khô và nhăn nheo trông rất dễ nhận biết.  Đôi khi  có  tràn dịch  màng phổi,  nổi  hạch cổ, gan to, bụng báng,  hội  chứng Horner (đồng  tử co nhỏ, sụp mi  mắt  và giảm tiết  mồ hôi).  Lý do của  gầy sút ngoài  do ung thư còn do không ăn uống được.

6. Cận lâm sàng

6.1.  X quang

Trên hình ảnh X quang chiếu hoặc chụp,  cần phải  xác  định rõ  vị  trí của thương  tổn, mức  độ  phát triển  của khối u theo chiều  dọc  của thực quản, tình trạng của thực quản trên chỗ có tổn thương, các tổ chức chung quanh thực quản.

−  Chiếu  sau khi  cho  uống baryt thấy  thành thực quản nham nhở, những chỗ  có ung thư không có nhu động và cứng đờ.

−  Chụp thực quản có baryt ở các  tư thế  thẳng, nghiêng,  chếch  lấy toàn  bộ thực quản, ta có thể thấy những hình ảnh sau:

+   Một hình khuyết có đường bờ nham nhở, ngoằn ngoèo, thấy  trong ung thư thể sùi.

+   Lòng thực quản ở  một đoạn  nào  đó  hẹp nhỏ lại,  cứng gặp  trong ung thư thể thâm nhiễm.

+   Một  ổ đọng thuốc hình  tròn, hình bầu dục hay hình thấu kính  tương ứng với ung thư thể loét.

Các biểu hiện trên là biểu hiện của  các  thương tổn lớn khi  bệnh nhân  đến trễ.  Trong giai  đoạn  sớm của bệnh, khi thương  tổn còn nhỏ, với  phương pháp chụp X quang thông thường không phát  hiện được,  lúc  đó cần phải dùng các phương pháp X quang khác.

−  Chụp đối  quang kép: cho  thấy  hình dạng  các  lớp  niêm mạc bị thay đổi.

Đây là triệu chứng sớm nhất của ung thư thực quản.

−  Quay phim X quang cho  thấy  một đoạn  thực quản khi co bóp  không còn mềm mại bình thường.

Tóm  lại, X quang giúp chẩn  đoán xác định bệnh, chẩn đoán  vị trí ung thư và chẩn  đoán  độ lớn của  thương tổn.  Bên cạnh  chụp thực quản, người ta còn chụp phim phổi  thẳng,  nghiêng  để  xác định tình  trạng  nhu mô  phổi,  tình trạng màng phổi và bóng tim.

                        A.                                                                       B.

                            Hình 1.3.  Chụp thực  quản cản  quang

A. Cản quang thường B. Đối quang kép

6.2.  Nội soi và sinh thiết

Soi   thực  quản  bằng ống   soi   mềm   cho phép  quan sát trực  tiếp  thương  tổn  và  xác định được đó là loại u sùi, loét hay phối hợp, cách cung răng  bao  nhiêu, từ đó ta xác định được  vị  trí  khối u.  Những  thương tổn  ở  giai đoạn sớm,  hình  ảnh thấy   được  là  niêm mạc mất  nếp, phẳng  ra. Giai đoạn  sau, niêm mạc thực quản vùng có thương tổn ung thư sùi lên những  nụ  lấn   vào   lòng    thực  quản.  Trên thương tổn sùi có những đám hoại tử loét, nên thường thấy 2  thương tổn  sùi và loét đi kèm nhau, khi   chạm vào  thương  tổn  rất  dễ chảy máu. Khi thương tổn đã quá lớn thì lòng  thực quản hẹp hẳn lại  và  ngay trên  chỗ  hẹp  có  ứ đọng thức ăn.

Hình 1.4.  Nội soi ung  thư thực  quản

6.3.  Siêu âm nội soi

Phương  pháp này  rất   hữu hiệu  trong việc đánh giá  độ xâm  lấn  của   ung thư  ra ngoài   thực quản và  phát hiện  các   hạch di căn. Kỹ  thuật này  giúp các phẫu thuật viên không phải mở  ngực vô ích khi  khối u đã tiến triển xa.  Siêu  âm qua nội  soi  đánh giá mức độ xâm lấn tại chỗ  chính xác hơn CT  scan. Hiện nay, ở các  nước phát triển và các trung tâm  lớn,  siêu âm qua nội soi  được  xem   là phương tiện  chẩn  đoán hình  ảnh dùng để  phân  giai  đoạn  T của  ung thư thực quản cũng như thâm nhiễm  hạch vùng chính xác nhất.

Hình 1.5.  Siêu âm nội soi ung  thư thực  quản

6.4.  Các xét nghiệm cao cấp khác

Hiện nay, tùy theo điều kiện  ở  một số nơi  người ta sử  dụng một số  xét nghiệm  cao cấp  như CT  scan  ngực, CT  scan bụng hay thậm chí PET-scan để  lượng giá mức độ lan rộng của  khối ung thư, hạch  lympho và  các nốt di  căn ở  gan, cung mạch  vành vị  và  để xem   bệnh  nhân   còn  khả năng  phẫu  thuật

điều trị triệt  để không.

7. Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt

Trong những năm gần đây, mặc dù có nhiều tiến bộ về mặt kỹ thuật thăm dò nhưng tỷ lệ ung thư thực quản được phát hiện sớm không nhiều (10%) vì khó thấy  thương tổn sớm của  ung thư thực quản trên phim chụp thực quản.

Chẩn đoán  ung thư ở giai đoạn  muộn thường dễ  dàng  vì  bệnh nhân đến viện với cảm  giác nuốt v−ớng hay đã có nghẹn, có khi  bị nghẹn  đã nhiều  tháng. Có  trường hợp vào viện đã hoàn toàn  nghẹn không thể ăn uống được, ngay cả với thức ăn lỏng  cũng không nuốt được.  Thường xuyên ứ đọng nước bọt, đờm dãi, hơi  thở hôi...  Tình  trạng  toàn  thân  xấu,  gầy sút nhiều, có khi  chỉ  còn  da bọc xương.

Tùy  theo giai  đoạn  có  thể  kết  hợp với  X quang, nội  soi  thực quản, sinh thiết,  siêu âm nội  soi để chẩn đoán.

Hình 1.6.  Chụp cắt lớp vi tính ung  thư thực  quản

Chẩn đoán phân biệt

Trong giai  đoạn  muộn của  ung thư thực quản, chẩn  đoán  dễ, nhưng khi

đến sớm cần chẩn  đoán phân biệt với các  bệnh sau:

−  Co thắt  tâm vị là bệnh cũng thường gặp,  nhưng tiến triển  bệnh  khá dài và không thường xuyên khó nuốt như trong ung thư thực quản.

−  Hẹp thực quản do  viêm. Nguyên  nhân  là  do  hiện  tượng trào  ngược dạ dày-  thực quản. Có  tiền  sử trào  ngược  trong  nhiều năm, triệu  chứng nghẹn tăng  từ từ và  thường có  kèm theo đau,  tình  trạng  toàn  thân ít thay đổi.

−  Túi  thừa thực quản: phát triển chậm,  không có gầy sút cân, trên X quang có chuẩn bị thấy thành thực quản lồi.

−  Thương tổn thực quản do chấn thương: bệnh nhân  nuốt khó, nuốt đau bởi những vết  s−ớt,  vết  loét do dị vật  gây nên.  Chẩn đoán được  nhờ chụp X quang hoặc soi thực quản.

8. Phân chia giai đoạn trong ung thư thực quản

Vấn đề đặt  ra đầu tiên đối với một bệnh nhân được chẩn  đoán là ung thư thực quản đó là bệnh  nhân  có thể  điều trị phẫu thuật  triệt  để,  điều  trị phẫu thuật tạm thời hay chỉ điều trị triệu chứng không phẫu thuật. Đây là một vấn đề  thực sự  khó khăn bởi  vì  đánh  giá  giai  đoạn  của  ung thư thực quản trước phẫu thuật ít  chính  xác. Sau phẫu thuật ta có  thể phân chia giai  đoạn  theo TNM  được AJCC và UICC đưa ra năm 1988.

9. Điều trị

Có  3 phương pháp điều trị cơ bản đối với ung thư thực quản đó là phẫu thuật, xạ trị liệu và điều trị hóa chất.  Từng phương pháp riêng thì không đảm bảo  đưa  lại  kết  quả khả quan. Tốt nhất là  kết  hợp 3  phương pháp  này  với nhau. Hiện nay có rất  nhiều nhóm hóa trị liệu, mỗi  nhóm theo một công  thức điều trị định sẵn.

9.1.  Phẫu thuật

9.1.1. Phẫu thuật triệt để

Phẫu thuật  triệt  để  được  thực hiện  với cắt thực quản mang theo khối u và  tái  lập  lưu thông tiêu  hóa. Phẫu thuật có  thể  qua đường  mổ bụng-ngực, bụng đơn  thuần, bụng-ngực-cổ hay quan  đường  nội  soi  bụng-ngực. Lưu thông tiêu hóa được tái lập bằng vạt dạ dày cuộn ống, quai ruột non hay đại tràng.

Tóm  lại, hiện nay đối với ung thư thực quản có 5 loại phẫu thuật và mỗi loại có đặc điểm riêng:

−  Phẫu thuật Sweet (mở  ngực-bụng). Đây là đường mổ tốt cho thương tổn 1/3 dưới thực quản. Nhược điểm là không bóc tách và nạo hạch lên cao được.

−  Phẫu thuật Lewis-Santy (mở  ngực phải-bụng) áp dụng chủ yếu cho  u ở

1/3  giữa thực quản. Ưu điểm là đánh giá được  tình  trạng bụng và hạch quanh thực quản ngực. Nếu có  phương tiện  nối  bằng máy sẽ giúp đơn giản hóa phẫu thuật.

−  Cắt  thực quản toàn  bộ  (mở  thực quản cổ-bụng-ngực).  Đây  là phẫu thuật ưa chuộng khi  tổn thương 1/3 giữa.

−  Cắt thực quản không mở  ngực, chỉ mở  bụng, cổ, tách thực quản (phương pháp  Orringer). Nhược điểm là không lấy rộng mô  quanh thực quản, chỉ áp dụng cho những trường hợp u nhỏ, mới khu trú ở 1/3 trên và dưới. Ưu điểm là ít đau sau mổ.

−  Cắt thực quản qua nội soi lồng ngực: hiện nay được áp dụng ngày càng nhiều.

9.1.2. Phẫu thuật tạm thời

Những bệnh nhân đến muộn khi  thương tổn quá lớn hoặc đã  có  di  căn hoặc tình  trạng  toàn thân xấu  không cho  phép tiến  hành phẫu thuật điều trị triệt  để,  như những bệnh  nhân lớn tuổi,  nuốt nghẹn độ IV  trở lên, khối u đã xâm lấn sang khí quản, động mạch chủ, tim..., phẫu thuật nhằm mục  đích để cho bệnh nhân có thể nuốt được.

−  Đặt  ống  nong trong lòng  thực quản: ống  này  cho  phép  nuôi dưỡng bệnh nhân  bằng các  chất  lỏng  và các  thức ăn đặc đã được nghiền  nhỏ.

−  Phẫu thuật  bắc cầu (Pontage): trong phẫu thuật  này, thương  tổn  được  giữ nguyên. Dùng một đoạn ống tiêu hóa (một quai ruột non, một đoạn) cắt hai đầu, giữ nguyên mạc treo, bắt cầu từ thực quản cổ tới dạ dày. Đoạn ghép này nằm trước hoặc sau xương ức. Phẫu thuật không cần mở lồng  ngực.

−  Nhiều  tác giả  chủ  trương mở  thông dạ dày để nuôi dưỡng bệnh nhân. Dạ dày  được  mở  thông bằng phương  pháp Fontan hoặc  Witzel. Tuy  nhiên, mở  thông dạ dày  không được bệnh nhân −a thích vì không được ăn bằng miệng  và một số  trường hợp  bệnh nhân bị  nhiễm  khuẩn lan vào ổ  bụng làm tử vong  nhanh.

9.2.  Xạ trị

Xạ trị đơn thuần hiện nay ít được sử  dụng để điều  trị ung thư thực quản vì hiệu quả thấp hơn  hẳn hóa trị liệu. Tuy  nhiên, xạ trị được sử  dụng phối hợp với phẫu thuật và hóa trị  cho  thấy  hiệu  quả trong cải  thiện  triệu  chứng cũng như kiểm soát khối u tại chỗ.

Tuy  nhiên, xạ trị phối hợp chưa cho  thấy  hiệu quả trên kéo dài thời gian sống thêm.

9.3.  Hóa trị

Điều  trị hóa chất có thể được sử  dụng trước hay sau phẫu thuật. Hóa trị liệu trước phẫu thuật không làm  tăng khả năng phẫu thuật triệt  để cũng nhu tỷ  lệ biến chứng sau phẫu thuật. Tuy  nhiên, hóa trị  liệu cho  thấy  có thể  kéo dài thời gian sống thêm sau 5 năm.